Nghệ thuật cồng chiêng gắn bó với những niềm vui và nỗi buồn của các cộng đồng tộc người ở trên núi, từ lễ hội đến phong tục tập quán, và cồng chiêng đã trở thành tài sản quý giá. Nghệ thuật cồng chiêng với sự đa dạng về tiết tấu và giai điệu, với sự hòa âm trong không gian rộng lớn đã tạo nên một âm hưởng trầm hùng, vang xa phù hợp với không gian tự nhiên của núi rừng, được con người tạo thành những không gian thẩm mỹ hoành tráng.
Bí quyết tạo nên sự hấp dẫn của âm thanh (vang dội, trong trẻo, trầm ấm) từ những nhạc cụ hết sức thô sơ và đơn giản này chính là nghệ thuật pha chế đồng và cách tạo dáng của người thợ đúc. Có khi người ta còn pha cả vàng, bạc và đồng đen – một thứ hợp kim được tạo ra trong khung cảnh “thiêng” làm cho tiếng cồng, tiếng chiêng ngân xa trên thinh không nơi trú ngụ của thần linh để cầu xin sự phù hộ độ trì, đồng thời cũng khắc sâu vào tâm khảm nơi sâu lắng nhất của lòng người những ấn tượng thiêng liêng đưa con người đến những tình cảm thánh thiện.
Người Mường như đã nói, nằm trong nhóm ngôn ngữ và văn hóa Việt – Mường, nhưng dân tộc Mường lại bảo lưu được nghệ thuật cồng chiêng – một yếu tố của văn hóa núi – và trở thành một nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc của người Mường, mặc dù họ chỉ còn lại dàn cồng mà họ gọi là chiêng. Trong khi đó thì người Việt, nghệ thuật cồng chiêng bị giải thể cấu trúc và chỉ còn lại một số yếu tố trong nhạc cụ mặc dù trong ngôn ngữ vẫn có hai từ cồng và chiêng.
Người Mường thường nói : “Trống đánh không nghe một dùi
Chiêng vui không nghe một tiếng